Con đường xuất gia và tu học của Thái tử Tất Đạt Đa
CHƯƠNG I: DẪN NHẬP
Sức mạnh của tiếng nói con tim thật là lớn và vĩ đại. Thử hỏi rằng sống trong cuộc sống này, một khi con người đang hưởng thụ với một đời sống vật chất vô cùng đầy đủ, một khung cảnh trướng rủ màn che, đầy đủ mọi tiện nghi, nào là vợ đẹp con thơ, nào là vinh hoa phú quý, nào là uy quyền thế lực…bất cứ mọi ưa thích đều được đáp ứng thoả mãn, vậy thì thử hỏi ai trong chúng ta đành đoạn từ bỏ những hạnh phúc sẵn có ấy, những cơ hội thăng hoa sung sướng này...Vậy mà, chàng thanh niên Sĩ Đạt Ta, người con duy nhất của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia, một con người tài đức song toàn, phải kế thừa sự nghiệp làm Hoàng đế của vua cha, đang sống bên người vợ yêu kiều diễm lệ Da-du-đà-la,và người con trai ngoan hiền La-hầu la trong hoàng cung lộng lẫy, đã từ bỏ tất cả để ra đi, một cuộc ra đi vĩ đại. Điều gì đã làm cho trái tim thái tử sĩ đạt ta rung động đến thế, phải bỏ lại ngôi vị đế vương, từ giả cuộc sống hoàng cung lộng lẫy, từ bỏ vợ đẹp con thơ mà thế phát xuất gia, truy tìm chân lý của sự giác ngộ, giải thoát như vậy?.
Thử hỏi ai trong chúng ta sẽ làm được điều này, ai mà có một trái tim vĩ đại , có một chí nguyện cao cả như thế, chỉ có một không hai, đó là Thái tử Tất Đạt Đa mà thôi, một sự ra đi tìm đường chân lý giác ngộ giải thoát, vì lợi ích an lạc cho chúng sanh. Là một người học và tu theo Phật, thấy được giá trị to lớn sự xuất gia học đạo của thái tử Tất Đạt Đa như vậy, nên khi làm bài tiểu luận, người viết đã chọn cho mình đề tài “ Con đường xuất gia và tu học của Thái tử Tất Đạt Đa” như một sự tìm hiểu cơ bản về lịch sử cuộc đời của Đức từ phụ Bổn sư trong giai đoạn xuất gia và tu học cho bộ môn “Lịch sử Cuộc đời Đức Phật” này.
Lịch sử cuộc đời Đức Phật thì có rất nhiều giai đoạn và cũng đã được rất nhiều tác giả, các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt nam tham cứu và viết thành nhiều tác phẩm có giá trị thực tiển cho lịch sử nói chung và lịch sử Phật Giáo nói riêng. Vì vậy, trong bài tiểu luận này, người viết không trình bày toàn bộ lịch sử cuộc đời đức Phật mà chỉ thuần tuý nói về “Con đường xuất gia của Thái tử tất Đạt Đa” đem lại một kết quả vô cùng to lớn là chứng ngộ chân lý giải thoát, thành tựu đạo quả Bồ đề, thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, Trí bi Viên mãn, hạnh phúc an lạc cho mọi chúng sanh. Đây là một đề tài mang tính chất lịch sử, cho nên có nhiều cách nghiên cứu cũng như cách trình bày khác nhau. ở đây, để làm sáng tỏ nội dung đề cập, người viết sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp là chính, và thêm vào đó là những khác về triết học, văn học, kết hợp với những thật ngữ, mỹ từ cùng sự trích dẫn trong sách nhằm chứng minh đối chiêu làm sáng tỏ thêm vấn đề. Và người đọc khỏi phải nhàm chán. Qua con đường xuất gia và tu học này, chúng ta có một hiểu biết cụ thể về đời sống xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, mà chủ điểm ơn là đời sống vật chất cũng như tinh thần của Đức Phật khi còn là một thanh niên đang sống và xuất gia tu học của ngài, qua các phần như sau:
1. Bối cảnh lịch sử Ấn Độ trước và ngay thời kỳ đức Phật.
2. Con đường xuất gia của Thái tử Tất Đạt Đa.
3. Sự tìm cầu học đạo của Thái tử Tất Đạt Đa.
Với bài tiểu luận này, người viết mặc dầu đã cố gắng tập trung để viết, nhưng với những kiến thức hạn hẹp, cũng như thời gian cho phép để hoàn thành bài tiểu luận hơi hạn chế nên việc mắc những sai sót không sao tránh khỏi trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và trích dẫn để viết bài. Kính mong quý bậc giáo thọ sư, giáo sư hướng dẫn cùng các thiện hữu tri thức hoan hỷ bỏ qua, chỉ dạy thêm, người viết chân thành tri ân.
CHƯƠNG II: XÃ HỘI ẤN ĐỘ TRƯỚC VÀ NGAY KHI ĐỨC PHẬT RA ĐỜI
1. Vị trí Địa lý Ấn Độ.
Ấn độ là một bán đảo rất rộng, trên 5.000.000 km2. dân số hơn một tỷ người (theo thống kê năm 2000), chiếm 1/5 dân số thế giới. đây là một lục địa đông dân, nên có rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, phong phú và đa dạnh về phương diện chủng tộc, văn học triết học, nghệ thuật… về mặt khí hậu , thì ở miền Bắc những con gió mạnh, người ta đặt cho nó là cuồng phong mang theo khí tiết lạnh như băng thổi ào ào từ dãy Himalaya quanh năm, và khi những ngọn gió này gặp những hơi nước nóng ở miền Nam tạo thành sương mù u ám. ở miền Punjab là những cánh đồng phì nhiêu màu mỡ, do sự bồi đắp phù sa của các con sông lớn. nhưng tiến xuống phương Nam sâu hơn thì chang chang nắng lữa, đất đai khô cằn sỏi đá, đặc biệt là có 1/5 đất còn là rừng nguyên sinh. Phía cuối bán đảo là Decan khí hậu nóng và khô… chính kí hâuk này đã có phần ảnh hưởng rất lớn đến tôn giáo, triết học và tập quán của dân tộc Ấn Độ.
2.Tình hình Chính Trị - Xã hội.
Ngược dòng thời gian, trở về lịch sử Ấn Độ thời bấy giờ, chúng ta thấy rằng vào khoảng 1.500 năm Tr.CN[1], người Aryan bắt đầu dọc theo đường bộ, từ phía bắc Ấn Độ du nhập và định cư dọc theo sông Hằng ( Ganges river) của Punjab ( Ngũ Hà địa) chính thức mở ra cuộc xâm chiếm Ấn Độ. Khi những người Aryan đầu tiên vào Ấn độ thì giống người chính thống đang sinh sống ở đây là Dravidián, và rải rác tại một vài vùng có giống người Kolarians. Aryan là một giống người da trắng, khoẻ mạnh, gan dạ và chiến đấu rất giỏi. Vì là những chiến sĩ thiện chiến nên việc làm chủ miền bắc Ấn độ là rất dễ dàng và dần dần họ đánh chiếm và xâm lánh về phía Đông dọc theo lưu vực sông Indus và Gangas. “Mãi đến thế kỷ thứ VI trước CN, họ lần lượt mở địa bàn xâm chiếm từ vùng Punjab đến vịnh Bengal và tiến sâu vào địa phận của Decan, rồi lần lần cho đến khi chinh phục toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ”[2]. Khi đã làm chủ Ấn Độ, người Aryans bắt đầu đặt ách thống trị lên người bản xứ. Tuy vậy, họ cũng chịu ảnh hưởng nền văn hoá dân tộc địa phương. Vào thời điểm này, một số vương quốc Aryans được thành lập. Chúng sống không thân thiện, hoà bình với nhau, trái lại thường xung đột, gây hấn lẫn nhau.
Trong thời kỳ cổ đại, dân tộc Ấn Độ tổ chức bộ máy chính trị theo chính thể cộng hoà.Nhưng đến thời kỳ đức Phật xuất hiện, chế độ đó đã bị suy tàn và được thay thế bằng chế độ “chính thể quân chủ chuyên chế”.[3] chỉ duy nhất còn lại hai nước, Magadha ( ma - Kiệt - Đà) và Kosala ( Kiều - tát- la), vẫn còn tồn tại chế độ cộng hoà. Dòng họ của Đức Phật là Sakya ( Thích Ca), đống đô ở Kapilavastu ( Ca -Tỳ- La- Vệ), nằm ở phương bắc nước Kosala thuộc miền trung Ấn Độ. Các tiểu vương quốc tập trung gần nhau nên tạo nên trung tâm văn hoá và văn minh Ấn Độ đương thời, mặt khác nó cũng có quan hệ mật thiết với Phật giáo ngay từ thời khởi nguyên cho đến hôm nay.
Người Ấn độ cổ đại rất tôn trọng thờ cúng và tế tự các Thần linh. Lúc đầu họ bầu ra Tộc trưởng hay Gia trưởng để giữ việc tế gọi là thầy Tế. Dần dần chức thầy Tế trở thành công việc chuyên môn nên được thay bằng các tăng lữ. Mặt khác sự phát triển của xã hội phát sinh bốn chức nghiệp và dần trở thành bốn giai cấp trong xã hội.
a. Bà la môn ( Brahamaes): Là hàng giáo sĩ giữ việc cúng tế, chiếm địa vị tối cao, cha truyền con nối, luôn nắm giữ quyền thống trị về tinh thấn. Họ tự cho mình sinh ở đầu Thượng Đế, ở chổ cao thượng còn gọi là Phạm Thiên. Họ luôn được tôn kính, an hưởng mọi sự tôn kính nhất. Để thánh hoá hàng Tăng lữ và dễ bề ngự trị xã hội. Họ quy định cuộc đời Bà la môn, có 4 thời kỳ như sau: Phạm tư kỳ ( 7 đến 11 tuổi), Gia cư kỳ (Thời thanh niên), Lâm cư kỳ (Xuất gia tu thiền và hành đạo), Du hành kỳ ( Lão niên, lo du hoá sống đời khất sĩ).
b. Sát Đế Lỵ ( Kastryas): hàng Vua chúa quý phái, tự cho mình sanh ra ở bụng Phạm thiên, thay mặt Phạm thiên nắm giữ quyền hành, thống trị dân chúng.
c. Vệ Xá (Vaisyas): là những hàng thương gia chủ điền, tin mình sanh ra từ tay chân Phạm thiên, có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế trong nước ( mua bán, trồng trọt) làm lợi cho quốc gia.
d. Thủ Đà La (Soudras): hạng thấp hèn, là những tù binh bị bắt làm nô lệ. Họ tin mình sanh ở chân Phạm Thiên, nên chỉ biết vâng lời phục dịch các giai cấp trên.
3. Tình Hình Tôn giáo và Triết học.
Như chúng ta thấy người dân Ấn Độ, bao gồm cả người bản địa và người Aryan xâm chiếm, có nhiều chủng tộc, nhiều giống người nên họ có tín ngưỡng tôn thờ rất nhiều thần linh, gọi là đa thần giáo, như thần cây, thần đá, thần rắn, thần mặt trời, thần mặt trăng, thầnm mưa, thần gió, thần sấm sét ….. những quan điểm về con người với vũ trụ, thần linh đơn giản và chơn chất là cái nền tảng quan trọng cho sự phát triển của nhận thức tâm linh triết học Ấn Độ. Do có nhiều sự tín ngưỡng khác nhau, có nhiều đạo giáo, có nhiều giai cấp trong xã hội, trong đó Bà la môn là giai cấp thống trị cao nhất, họ cai tri xã hội với luật Menu và với thánh điển bốn bộ Vệ đà, gồm Lê câu phệ đà (rigveda), Da du phệ đà (yayyrveda), Sa ma phệ đà ( samaveda), A thát bà phệ đà (Atharaveda), nội dung 4 bộ Veda mang tính siêu hình, huyễn hoá, cho Phạm thiên (Brahma) là bậc tối cao sáng lập ra vũ trụ, vạn vật cai trị thiên hạ. Nhưng 600 năm trước Tây lịch trở về sau ngoài tư tưởng triết học Bà La Môn còn có các tôn giáo, triết học khác xuất hiện có thế lực như: Phật giáo, Kỳ- na-giáo, Lục-sư ngoại đạo, Sáu phái triết học…
Kỳ-na giáo (jain): Chủ trương về mặt Vật - hoạt- luận, theo tư tưởng thực thể (Dravaya). Lục sư ngoại đạo phái thì ta thấy theo kinh điển và sử liệu của Phật giáo, lúc đức Thế Tôn còn hiện tiền thì có sáu nhà ngoại đạo chủ trương mỗi phần lý thuyết khác nhau, nên đức Phật thường gọi là “ lục sư ngoại đạo” bao gồm: Phái ngẫu nhiên (Phú Đa Ca diếp (Purana)). Phái tự nhiên (Mạc già lê câu xá lợi- Makphali Nosala), Phái duy vật khoái lạc (Adita thuý xá khâm bà la- Ajjtakesa kambali), Phái sinh mệnh vật chất thường còn (Bà phù đa ca chiên diên- Pakudha katyayana), Phái hoài nghi (Tán nha gia tỳ la lệ tử- Sanjava bahatthpitta), Phái khổ hạnh (Ni kiền đà nhã đế tử- Nigantha nàtadatta). Sáu phái triết học bao gồm: Số luận (Samkhya), Thắng luận (Vaisesika), Chính lý luận (Nyàya), Di man tác (Minàmsa), Du già (Yoga), Phệ đàn đà (Vedanta).
Do ở trong thời bấy giờ, xã hội Ấn Độ đã phải chịu thống trị bởi quá nhiều lý thuyết, tôn giáo và triết học đã làm cho con người Ấn Độ, ngay cả những bậc vua chúa cũng bị nhầm lẫn không biết lý thuyết nào là đúng, là hay có thể theo đuổi để thực hành trong cuộc sống. vì thế, họ tha thiết và mong mõi có một vị thánh nhân ra đời bằng xương bằng thịt, bằng những thực chứng cụ thể của bản thân để hướng dẫn họ trong đời sống tâm linh của mình, chứ không phải là một trào lưu lý thuyết xuông, một đấng ban hoạ dáng phúc, nên Đức Phật đã thị hiện và quyết ra đi tìm đường giải thoát đáp ứng nhu cầu thực tại cho nhân loại.
CHƯƠNG III: CON ĐƯỜNG XUẤT GIA
1. Sơ lược Thân thế của Thái tử Tất Đạt Đa.
Theo kinh đại Bổn Duyên, Trường Bộ và nhiều kinh khác của Nikaya, Ngài là một thái tử, tên là Siddhattha (Sĩ đạt ta - Tất Đạt Đa), dòng họ Gotama (Cồ đàm), Vương tộc Sakyya (Thích ca), thuộc đẳng cấp Shatiya (Sát đế lợi), con vua Suddhodana (Tịnh Phạn), và Hoàng hậu Mayadevì (Ma gia), ngài sinh vào năm 544 trước Tây lịch, tại vườn Lumbini (Lâm-tỳ-ni), phía Đông thành Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-Vệ), nước Kapilavatthu. Thái tử Siddahattha khi mới sanh ra có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, dấu hiệu của bậc vua chúa, hoặc vị Chuyển luân vương trong tương lai, bảy ngày sau khi thái tử đản sanh, Hoàng hậu Màyadevì từ trần.
Vào thuở thiếu thời, hoàng tử Siddhattha được chăm sóc và dạy dỗ trong môi trường văn háo, giáo dục lý tưởng nhất thời đó. Ngoài sự thông minh, văn võ kiêm toàn, tài năng xuất chúng, hoàng tử còn được mọi người yêu mến với lòng hiếu thảo, sự khiêm cung, hiếu khách lịch sự và lòng thương người. mặc dù được sống trong sự phồn hoa của cuộc đời vương giả, được thương kính, mến yêu trong gác tía lầu son, nét vẻ tầm tư, nghĩ ngợi vẫn luôn ẩn hiện trong khuôn mặt đầy nhân ái của thái tử Siddhattha. Lo lắng với lời tiên đoán của đạo sĩ Asita (A-Tư-Đà), là lớn lên Thái tử sẽ xuất gia và trở thành bậc giác ngộ, vua Tịnh Phạn ra lệnh xây dựng ba cung điện huy hoàng, thích hợp với ba mùa, trang bị đầy đủ tiện nghi vật chất để cho Thái tử hưởng những lạc thú thế gian. Để thắt chặt thêm mối ràng buộc với cuộc đời, cuộc hôn nhân giữa Siddhattha và công chúa diễm lệ Da-Du-Đà-La (Yasadhàra), dòng họ Koliyas đã được tiến hành. Cuộc kết hôn tuyệt vời và ý vị đó đã sản sinh một hoàng nhi tuấn tú kháu khỉnh, mang một cái tên đầy ý nghĩa Ràhula (La-Hầu-La; có nghĩa là mối ràng buộc), vì Thái tử cho rằng đây là sự trở ngại cho con đường xuất thế của mình đã được nung nấu từ lâu. Thái tử đã phải thốt lên rằng: "Một trở ngại đã được sinh, một ràng buộc đã xảy ra"
2.Cuộc du ngoạn của Thái tử Tất Đạt Ta qua bốn cửa thành.
Là một Thái tử đã trưởng thành, đã yên bề gia thất, dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: nào chức tước danh vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa hát, nào vợ đẹp con ngoan, Thái tử Tất Đạt Đa vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.
Nhân ngày lễ tịch điền, Thái tử theo vua cha Tịnh Phạn ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nhưng tâm hồn Thái tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán một cách nông nổi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy: Người nông phu và trâu bò làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng sự sinh sống là khổ.
“ Ôi nhân loại điêu linh khốn khổ
Sát hại nhau vì chổ lợi quyền
Yếu, thua , mạnh được ngang nhiên
Vui chi trên cái đau phiền chúng sanh”[4]
Một hôm khác, Ngài xin phép vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã. Ðến cửa Nam, Thái tử thấy một người ốm nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng. Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái xác chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, và phình lên, trông rất ghê tởm. Ba cảnh khổ già, bệnh, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái tử đã nhận thấy khi đi xem lễ cày ruộng, làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sinh vô cùng.
Một hôm khác, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong lòng nẩy sinh một cảm mến đối với vị Tu sĩ. Ngài vội vã đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cõi đời, về cầu cho mình khỏi khổ và thành chính giác để phả độ chúng sinh đều được giải thoát như mình" Lời giải đáp trúng với hoài bão mà Thái tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều này là:
1. Làm sao cho con trẻ mãi không già
2. Làm sao cho con khoẻ mãi không bệnh
3. Làm sao cho con sống mãi không chết
4. Làm sao cho mọi người hết khổ
Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết được điều nào cả.
Tịnh Phạn Vương, khi biết được ý định xuất gia của Thái tử, lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong "cung vui". Nhưng một khi Thái tử đã quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được Ngài. Thái tử nuôi dưỡng quyết tâm từ bỏ gia đình, xuất gia cầu đạo.
3. Con Đường Xuất Gia Của Thái Tử Tất Đạt Đa.
3.1. Nhận thức về cuộc đời qua ba hiện tướng: Già, Bệnh, Chết.
Sau khi tận mắt chứng kiến những hiệ tướng sanh già bệnh chết và nghe sự giải thích của người hầu cận xa nặc, thái tử siddhattha đã nhận thức rằng cuộc đời không thật sự là an lạc hạnh phúc như mình tưởng, như mình sống, mà ngay phái cau những hạnh phúc và an lạc đó là chứa đựng bao sự thống thiết của khổ đau, của vô thường, chúng luôn chi phối kiếp sống nhân sinh qua các hiiẹn tướng Già, Bệnh, Chết. qua đây chúng ta thấy rằng một người xuất gia học đạo như thái tử, trước hết cần phải thấu triệt về cuộc đời là vô thường, khổ đau. tất cả vạn hữu vũ trụ đều do sự biến đổi không ngừng của các yếu tố nhân duyên giả hợp mà có. mọi pháp đều chịu chi phối của chiếc búa thời gian, qua sự sanh, già, bệnh, chết “ sanh trụ dị diệt”. một khi nhận thức đúng đắn như vậy thì vượt được và tiến lên trên con đường xuất gia tu học của mình.
3.2. Hoàn thành tâm nguyện của Vua cha.
Như đã được nói ở trên, vì muốn ràng buộc Thái tử bằng sợi dây tình ái, để chàng quên đi ý định xuất gia, vua Tịnh Phạn bắt buộc Thái tử lập gia đình và sinh con để kế nghiệp ngôi vị đế vương. Cho nên, Thái tử đã tỏ lòng hiếu đạo với vua cha, cũng cưới Yasodhara (Gia-Du-Đà-La) và sinh cho vua cha một người đích tôn là Ràhula (La-Hầu-La), dễ thương, ngoan hiền, sau 13 năm chung sống với nhau. Qua đó, chúng ta thấy rằng: thái tử vì tôn trọng tinh thần hiếu đạo và thuận theo phong tục tập quán của xã hội, nên thái tử đã cưới vợ sinh con . Điều này chứng minh rằng Thái tử là người đã làm tròn trách nhiệm của mình đối với gia đình, theo tinh thần hiếu nghĩa làm đầu.
3.3. Quyết tâm ra đi xuất gia của Thái tử.
“ Ta quyết tìm ra chân lý đó
Trong tối tăm mới có ánh đèn
Quản chi đồi núi kó khăn
Bể trầm luân lấp cho đầy mới thôi”[5]
Bốn tướng khổ sanh, già, bệnh, chết, đặc biệt là hình ảnh và những lời thanh thoát của vị sa môn mà thái tử đã có lần diện kiế trong những lần du ngoạn ngoài thành đẫ khiến cho ý chí xuất trần, tìm cầu con đường giải thoát của thái tử sidddattha luôn luôn được nung nấu. vào thời điểm nóng bỏng này, hình ảnh đau thương của kiếp người đã khiến thái tử luôn trầm tư đến thực chất của cuộc sống, cội nguồn của khổ đau và mong tìm ra một giải pháp để tự cứu mình, cứu người. Lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa cho Thái tử, lòng nặng trĩu tình thương chúng sinh chìm đắm trong bể khổ và Thái tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, tìm con đường cứu khổ cho muôn loài.
“ Bao lạc thú phơi bày trước mắt
Ngôi đại vương sắp đặt nhà vàng
Nhưng lòng thái tử chẳng màng
Thấy bao nhiêu lại lòng càng đau thương”[6]
Không còn nán lại giây phút nào nữa, nên một đêm nọ, vào lúc nữa đêm thái tử đã vượt thành xuất gia, đi tìm chân lý giải thoát. “ khi mọi người ngủ say sau buổi yến tiệc ling đình, thái tử nhìn từ biệt vợ con thân yêu lần cuối, rời bỏ hoàng thành, ra đi trong đêm tối trên lưng con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) cùng với người hầu cạn Xa Nặc (Chadaka) theo kế hoạch đã định. Rồi người hầu cận Xa Nặc và ngựa Kiền Trắc thân yêu cũng từ biệt Tất-Đạt-Đa khi cả ba đến dưới núi Hy Mã Lạp Sơn. Tại đây sau khi gởi tín vật cho Chandaka đem về trình lại vua cha cùng mẹ con Yosodhara và hẹn ngày tái ngộ khi nào ánh đạo vàng bừng sáng, thái tử cắt tóc xuất gia, làm vị đạo sĩ lang thang trên đường tìm cầu chân lý”[7]. Ở đây ta thấy thái độ từ giã vợ con trước lúc xuất gia là thể hiện phong cách lịch sự của người chồng đối với vợ trước lúc ra đi và cho chúng ta thấy rằng tình cảm thế gian không gì khó khăn và đau khổ bằng sự chia thay, đặc biệt là chia tay với người mình yêu. Đó là sự ràng buộc nhất của người đời, vì thế người muốn xuất gia phải cần có lý trí nghị lực và quyết tâm cao mới có thể cắt đứt mọi sự ràng buộc ấy. hình ảnh thái tử đi ban đêm tượng trưng cho màn vô minh luôn ngự trị trong tâm thức con người. xuất gia ban đêm là đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ vô minh đen tối ra ánh sáng chân lý, hình ảnh thái tử vượt sông A-nô-ma, tự cạo bỏ râu tóc, khoác áo nâu sòng trở thành sa môn là muốn nói rằng người xuất gia phải trang nghiêm tự thân và trang nghiêm tự tâm vượt qua dòng sông ái dục, tham lam, sân hận và si mê của chính mình, có như vậy sự xuất gia mới đúng ý nghĩa đích thực của nó . Đức Phật kể lại chí nguyện xuất gia của ngài: “ …khi ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ khí huyết của kẻ thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt than khóc, ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ…”[8].
“ Đây chiếc áo hoàng gia gởi lại
Thanh gương cùng với mài tóc xanh
Trên đường giải thoát tử sanh
Hẹn ngày đắc quả sáng danh đạo tràng” [9]
CHƯƠNG IV:
TÌM THẦY HỌC ĐẠO CỦA THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA
1.Tham học với các Đạo sĩ.
1.1.Học đạo ở thầy Alara-Kalama
Sau sự kiện phi thường xuất thế phi thường này, đạo sĩ Cù- Đàm (Gotama) lên đường tầm sư học đạo. Trước hết, ngài trở thành đệ tử của Alara-Kalama. vị đạo sĩ chứng đắc vô sở hữu xứ định. Khi sa-môn Gotama vừa gặp đạo-sư Alara-Kalama liền đảnh-lễ và nói: “Thưa tôn giả Kalama , vãn sinh ước mong sống đời phạm hạnh theo giáo pháp và giới luật của Tôn giả”. Vị ấy đáp: “Này hiền giả hãy ở lại đây. Giáo pháp này là như vậy, khiến cho người có trí chẳng bao lâu có thể chứng đạt tri kiến bằng vị đạo sư của mình và an trú trong ấy”[10]. Ðạo-sư Alara-Kalama liền giải-thích cho sa-môn Gotama biết cách tu-tập và các cảnh-giới chứng-ngộ.
Sa-môn Gotama theo lời chỉ-dẫn đó tu-tập vài ngày cũng chứng-ngộ cảnh-giới Vô-Sở-Hữu-Xứ. Ðạo-sư Alara-Kalama lấy làm hoan-hỷ thấy đệ-tử lỗi-lạc của mình thành công mau chóng, khen rằng: “ Thật là ích lợi cho chúng ta, thật là an lạc cho chúng ta khi có được Tôn giả này làm vị đồng Phạm hạnh của chúng ta. Giáo pháp này ta đã chứng đắc, Tôn giả cũng đã chứng đắc. Ta như thế nào, Tôn giả cũng vậy, Tôn giả thế nào, ta cũng như vậy. Này Tôn giả, chúng ta hãy cùng hướng dẫn chúng đệ tử này !”[11]. Tuy nhiên thành tựu ấy không thoả mãn mong ước của Thái tử Tất Đạt Đa, vì chưa thấu-triệt được chơn-lý tối-thượng mà ngài mong-ước. Ngài suy nghĩ: “Giáo pháp này không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn mà chỉ đưa đến Vô Sở Hữu Xứ”[12]. vì thế, nên thái tử Siddattha chán nản, không muốn chấp nhận giáo pháp này nữa nên xin từ giã bái biệt đạo-sư cùng chư huynh đệ đồng môn để tiếp-tục lên đường tầm đạo.
1.2. Học đạo ở thầy : Uddaka-Ramaputta
Mặc dù kinh nghiệm sống với đạo sư đạo-sư Alara-Kalama đã gây nhiều thất vọng, lòng ngưỡng mộ của thái tử Siddattha đối với các bậc đạo sư vẫn chưa bị lay chuyển, cho nên sau khi từ biệt đạo sư Alara-Kalama, thái tử Siddattha tiếp tục lộ trình cầu học của mình đến học đạo với đạo sư Uddaka amaputta (Uất-Ðầu Lam-Phất) ở gần thành Rajagriha(Vương-Xá), xứ Magadha (Ma-kiệt-đà). Thành Rajagriha, còn gọi là Rajagaha, cách Vesali khoảng 160 km về hướng nam. Sa-môn Gotama cùng với năm anh em ông Kondanna đi mười ngày đường đến gặp đạo-sư Uddaka Ramaputta. Lúc bấy giờ đạo-sư đã 75 tuổi và có 700 đệ-tử, 300 tu học tại chỗ và 400 ở các địa-điểm khác. Được biết: “ Vị này đã chứng đắc Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định, tuy nhiên một trình tự như trong trường hợp của Alara-Kalama đã lặp lại khi mà đạo sĩ Cồ Đàm thành tựu những gì người thầy thành tựu, và nhận thấy rằng đó không phải là sự giải thoát rốt ráo, có thể giải quyết được vấn đề cấp bách sanh tử luân hồi”[13]. và lần này cũng vậy, Thái tử cũng được đạo sĩ Uddaka Ramaputta mời ở lại để lãnh đạo giáo phái với lý do rất tuyệt là do mình tuổi đã cao không sống được bao lâu nữa, nhưng thái tử cũng từ chối lời đề nghị ấy mặc dầu nghe rất hấp dẫn.
Trong dịp này tình cờ vua Seniya Bimbisara đến thăm đạo-sư Uddaka Ramaputta, thấy vậy liền đến đảnh lễ sa-môn Gotama và đề nghị chia cho ngài phân nửa giang sơn nếu ngài chịu ở lại Magadha. Sau khi sa-môn Gotama từ chối, nhà vua yêu-cầu sa-môn sau khi thành công nhớ trở lại thành Vương-xá độ ngài. Thái tử Tất Đạt Đa, ngài mong cầu đạo vô thượng, mong cầu giải thoát khổ đau, chứ không phải lãnh đạo một giáo phái hay làm một đế vương huống gì là một nữa giang sơn. Do vậy, khi giáo lý của đạo sư Uddaka Ramaputta không làm ngài thoả mãn nhu cầu học hỏi của Ngài nên Ngài đã từ bỏ để ra đi tiếp tục cuộc du hành của mình.
2. Sáu năm tu khổ-hạnh tại rừng Uruvela ( Ưu-Lâu-Tần- Loa).
Sa-môn Gotama thấy rằng không còn ai khác giỏi hơn để ngài có thể nương tựa, đã đến lúc ngài phải tự tu tự chứng để đạt sở nguyện. Sau khi rời đạo sư Uddaka Ramaputta, ngài du hành về phía tây nam đến khu rừng Uruvela ( Ưu-Lâu-Tần- Loa), tại làng Uruvela, gần thành phố Gaya, cách Vương-xá khoảng 30 km về phía đông-nam, một khu rừng hoang vu xa vắng, thật sự khó khăn cho việc tu đạo đối với một vi thái tử như ngài. “ Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! thật khó khăn, đời sống viễn ly! thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị tỳ kheo chưa chứng thiền định… những sa môn hay bà la môn nào thân…, khẩu…, ý nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước…chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên.”[14]. Ngài cùng với 5 người bạn đạo là Kondanna (Kiều-Trần-Như), Bhaddiya (Bạt-Ðề), Vappa còn gọi là Dasabala-Kassapa (Thập-Lực Ca-Diếp), Mahanama-Kulika (Ma-Ha-Nam Câu-Lỵ) và Assaji (Át-Bệ) để chuyên tu khổ hạnh. Vào thời bấy giờ, cho đến nay vẫn còn, ở Ấn-độ, có nhiều đạo-sĩ tin-tưởng mãnh-liệt rằng lối tu khắc-khe ép xác, khổ hạnh có thể khắc phục và thanh-lọc thân tâm, diệt trừ tất cả dục vọng, và đưa đến giải-thoát cùng tột. Dĩ nhiên sa-môn Gotama quyết định trắc-nghiệm pháp môn này. Ở giai đoạn này, chúng ta có thể thấy quá trình tu khổ hạnh của thái tử ở nhiều giai đoạn kác nhau qua phương pháp tu hướng nội và tu hướng ngoại như sau:
2.1.Tu hướng nội.
Nhà khổ hạnh trẻ Siddhattha bắt đầu pháp tu khổ hạnh qua lối tu hướng nội bằng cách nghiến răng, nín thở, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm bằng cách kiềm hãm ý niệm thiên và bất thiện của tâm khởi lên… bắt đầu một cuộc tranh-đấu quyết-liệt để khắc-phục thân xác, với niềm hy-vọng rằng một khi đã làm chủ được mọi nhu-cầu phức-tạp và phiền-toái của thân thì tâm sẽ được giải-phóng khỏi sự thống-trị của vật-chất để đạt đến mức độ giải-thoát cao-siêu. Ngài cố-gắng đến mức cùng tột của lối tu khổ-hạnh. Về sau đức Phật đã kể lại cảnh ngài tu khổ-hạnh như sau:
"Lúc ấy tư-tưởng sau đây phát sanh đến tôi: Hay là ta thử cắn chặt răng lại, cong đầu lưỡi ép sát vào vòm hàm trên, và dùng tư-tưởng thiện đè bẹp, chế-ngự và tiêu-diệt tư-tưởng xấu. Thế rồi tôi cắn chặt răng lại, cong đầu lưỡi ép sát vào vòm hàm trên, và cố-gắng đè-bẹp, chế-ngự, tiêu-diệt tư-tưởng xấu bằng những tư-tưởng tốt. Lúc tôi tranh-đấu như vậy thì mồ-hôi từ trong nách tôi chảy tuôn ra. Như một người mạnh đè đầu đè cổ một người yếu xuống, ấn mạnh xuống, bắt phải thần phục, tôi cũng tranh-đấu như vậy để hàng-phục những tư-tưởng bất thiện. Nghị-lực tôi thật mạnh-mẽ và bất khuất. Tinh-thần tôi thật vững-vàng không lay-động. Nhưng thân tôi mòn mỏi không còn chịu đựng nổi sự cố-gắng kiên-trì đè nặng lên nó. Mặc dù những cảm-giác đau-đớn đó phát sanh trong thân tôi, nó không ảnh-hưởng đến tâm tôi chút nào."[15]. Rồi ngài thực hành thiền nính thở…. “Kết quả là cảm giác nóng bỏng toàn thân , những cơn đau nhức khủng khiếp trong đầu và những cơn đau co thắt dạ dày”[16]…tất cả đề là vô dụng, không lợi ích thiết thực cho một hành giả tìm cầu giác ngộ giải thoát mà trái lại càng là cho tâm càng dao động , không đem lại lợi ích an tịnh và khing an cho nội tâm. Ngài lại tiếp tục tu theo khổ hạnh hướng ngoại.
2.2.Tu hướng ngoại.
Ngài bắt đầu với đời sống loã thể, không nhận thức ăn đêm đến, mà đi khất thực để ăn. hạn chế trong ăn uống tối đa, chỉ ăn lá, rễ cây, vài hột mè, hột đậu mỗi ngày, ngủ rất ít, suốt ngày ngồi thiền hoặc đi kinh-hành. Thân hình ngài chỉ còn da bọc xương, cái rốn gần đụng xương sống…không tắm rữa, đứng không ngồi, nằm trên gai nhọn, mùa đông mặc toàn giẻ rách, vãi tử thi, rơm cỏ,.. ban ngày sống trong rừng, ban đêm sống trong rừng rậm, ngồi dưới ánh nắng mặt trời…mà kết quả là hơi tàn sức kiệt, cơ thể tiều tuỵ, xương lòi ra…mặc dù vậy nhưng không đem lại sự an tịnh trong tâm hồn. Ngài đã nhận ra rằng tâm là phương tiện có thể làm cho thuần thục , nhưng cứu cánh và giác ngộ thì không thể đạt được bằng sự ép buộc khổ hạnh và thiếu trí tuệ.
Sáu năm tu khổ hạnh, “Ngài đã trở thành đạo sĩ đệ nhất khổ hạnh, đệ nhất bàn uế, đệ nhất yếm ly, và đệ nhất độc cư thiền định, cho đến chỉ da bọc xương , ngài nhận ra rằng đây là con đường tu lầm lẫn, nên ngài từ bỏ ra đi”[17]. Không đạt được mục đích tối thượng giải thoát mà còn làm cho cạn kiệt, héo mòn về thể xác cũng như tinh thần. “ …theo cử chỉ như vậy, theo hành lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy. Ta cũng không chứng được pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc thánh. Vì sao vậy? vì với nhữnmg phương tiện ấy, không chứng đươọc pháp thượng nhân với Thánh trí tuệ. Chính Thánh trí tuệ này chứng được thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau…”[18]. Vì thế ngài đã từ bỏ nó và trở về lối sống quân bình hơn. Đó là lối sống tu tập theo con đường Trung đạo (Miđle Path).
“ Ngài đã xét kỷ về phương tu đó
Đã đoạ đày nào có ích chi
Sức người ngày một kém suy
Tâm linh trí tuệ còn gì cao siêu”[19]
3.Con đường Trung đạo - Bình minh của Chân lý.
Sau sáu năm tự bản thân kinh nghiệm tu tập, Đạo Sĩ Gotama đã nhận thức được rằng lối tu khổ hạnh không thể đem lại lợi ích. Thấy rằng khổ hạnh chỉ làm giảm suy trí thức và mệt mỏi tinh thần, Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia đã từ bỏ lối sống lợi dưỡng, và chọn con đường "Trung Đạo" mà sau sẽ trở thành một trong những đặc điểm của Giáo Lý Ngài.
Nhớ lại khi còn thơ ấu, vào buổi lễ Hạ Điền, thì Ngài đã ngồi nghĩ dưới tàng bóng mát của một cây trâm, tham thiền, nhập định và đắc Sơ Thiền. Ngài hiểu ra rằng vơí tấm thân mòn mỏi không thể hoàn toàn sáng suốt, một sức khỏe thích nghi rất cần thiết để thành đạt tiến bộ tinh thần, nên quyết định không nhịn đói nữa mà dùng những vật thực thô sơ. Điều này đã làm cho năm vị tu sĩ Kiều Trần Như thấy Ngài thay đổi phương pháp tu tập như vậy thì lấy làm thối chí, bỏ đi Isipatana (Vườn Lộc Giả) và nói rằng: "Đạo Sĩ Cồ Đàm đã trở lại ưa thích xa hoa, đã ngừng cố gắng, và đã quay về đời sống lợi dưỡng." Một mình, trong cảnh cô đơn, giữa chốn rừng sâu, các bậc vĩ nhân thường chứng ngộ những chân lý cao sâu thâm diệu và giải quyết được những vấn đề phức tạp, khó khăn.
Sau khi độ một vài vật thực thô sơ, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi sức khỏe và phát đại nguyện thiền định. rồi Ngài nhập Sơ Thiền (Jhana), rồi Nhị Thiền rồi Tam và Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài an trụ hoàn toàn vững chắc vào một điểm, lắng dịu trong sáng như mặt gương , và mọi sự vật đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Rồi tư tưởng trở nên lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô nhiễm, dễ uốn nắn, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ giác chứng được Tam minh, Lục thông, thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, giải thoát giác ngộ. Ngài biết rằng: "Ta đã được giải thoát" và Ngài nhận thức: "Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã được viên mãn, đã làm xong những việc cần phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa"[20]. Màn vô minh đã được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đã đến.
“Giải thoát đạt vẹn toàn
Đây là đời cuối cùng
Không còn tái sanh nữa”[21]
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN
Xã hội Ấn Độ thời bấy giờ như đang bế tắc, điên đảo với các học thuyết của các đạo giáo, mang tính thần quyền, ban hoạ giáng phước. Mà đứng đầu là giáo thuyết của Bà la môn đã đi đến đỉnh cao của sự tín ngưỡng thần quyền, với tổ chức xã hội qua bốn giai cấp khác biệt và thánh kinh Veda, làm cho xã hội con người càng thêm đau khổ và điên đảo. Không còn tha thiết với đời sống hiện tại, con người hiện tại họ đang cần một tư tưởng mới mẽ hơn, thiết thực hơn, cụ thể hơn, lợi ích thật sự hơn. Chính sự khát khao đó đã sản sinh ra giữa vườn hoa nhân thế những bông hoa ngạt ngào trí tuệ nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết của con người. Vì thế sự ra đời của Đức Phật như một tia sáng mới cho nhân loại. Đặc biệt hơn đó là sự ra đi tìm chân lý giả thoát của Ngài.
Qua sự học tập nghiên cứu đề tài “ con đường xuất gia và tu học của thái tử Tất Đạt Đa”, chúng ta thấy mỗi lời nói là một bài pháp, mỗi hành động là mỗi bài pháp, và ngay sự im lặng của ngài cũng là một bài pháp lớn nữa. Vì thế, ở giai đoạn này, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng: Một người muốn phát tâm xuất gia, cầu đạo giải thoát trong thời kỳ ngày nay, thì vị ấy phải biết và hiểu những gì ngài đã dạy qua cuộc đời ngài là phải biết liễu ngộ về bản chất vô thường khổ đau của cuộc đời theo một quy luật tất yếu của hiện tượng sanh già bệnh chết, hay thành trụ hoại không, hoặc là sanh trụ dị diệt, bằng sự nhận thấy của tâm mình. để khi nhận thức được như thế thì chúng ta mới có thể mạnh mẽ vượt qua mọi cạm bẩy của cuộc đời. kế nữa là trước khi muốn đi xuất gia phải làm tròn trách nhiệm của bản thân với gia đình, xã hội, không có nghĩa là cưới vợ sanh con như thái tử đã làm mà là sự hài hoà trách nhiệm của mình giữa gia đình và xã hội trên tinh thần ý thức hợp lý. Trên con đường xuất gia tìm cầu đạo giải thoát, hành giả phải có một tinh thần sáng suổt, một ý chí kiên cường, nhẫn nại và vượt khó trước mọi thử thách, chông gai của cuộc đời. phải tìm cho mình một vị minh sư đúng nghĩa, tài đức song toàn để nương theo tu hành đúng pháp và có lợi ích. Và đực biệt là phải biết ứng dụng nương theo con đường trung đạo làm nền tảng tu học trên tinh thần tuỳ duyn bất biến, bất biến tuỳ duyên, trong đời sống xuất gia của mình.
Có như vậy thì xuất gia và tu học của mình mới thật sự đúng nghĩa và chúng ta có lợi ích trong đời sống tu tập của mình. Ý nghĩa của sự xuất gia càng tăng thêm giá trị thiết thực trong cuộc sống. đời sống tu học của mình mới thành tựu đúng như sở nguyện sơ tâm ban đầu, cókhông uổng phí một đời tu hành, không phí tổn của đàn na. mỗi một người xuất gia, ai ai cũng đều phát triển cho mình một đoa hoa tâm với những hương sắc đức hạnh tinh khiết thì cuộc đời sẽ trở thành một quốc độ giải thoát, một vườn hoa mang đầy hương thơm của giới, định, tuệ và từ bi.
SÁCH THAM KHẢO
1. Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn Độ, nxb Quê Hương, 1997.
2. Thích Minh Châu, Trường Bộ Kinh, Tp.HCM, viện nghiên cứu Phật học, 1991.
3. Thích Chơn Thiện, Phật Học Khái Luận, nxb Tp HCM, 1999.
4. Thích Viên Trí, Ấn Độ Phật Giáo Tư Tưởng Luận, nxb Đông Phương, 2006.
5. Thích Quang Thạnh, giáo trình “xuất gia và tu học” dạy tại trường, 2007.
6. Tn Nguyên Hương, Lịch sử phát triển của Thiền Phật giáo, nxb Tổng Hợp, 2005.
7. Trần Phương Lan (dịch), Đức Phật lịch sử, nxb Tp. HCM, 2000.
8. Phạm Kim Khánh (dịch), Đức Phật và Phật pháp, nxb Phương Đông, 2007.
9. Lê Văn Thông, Phật sử diễn ca, nxb Lê Trang, Tp.HCM, 1963.
10. Minh Chi - Hà Thúc Minh, Đại cương triết học Đông phương, nxb Tp.HCM, 1993.
-------------------------
[1] Viết tắt của “trước Công nguyên”
[2] Minh Chi – Hà Thúc Minh, Đại cương triết học đông phương, nxb Tp.HCM, 1993, tr.26.
[3] HT.Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn Độ, nxb Quê Hương, 1997, tr.25.
[4] Lê Văn Thông, Phật sử diễn ca, nxb Lê Trang, Tp.HCM, 1963, tr. 29.
[5] Lê Văn Thông, Sdd, tr. 45.
[6] Lê Văn Thông, Sdd, tr.27.
[7] Thích Viên Trí, Ấn Độ Phật giáo sử luận, nxb Phương Đông,2006, tr.60.
[8] Trung Bộ kinh, HT. Thích Minh Châu dịch, TPHCM, Viện nghiên cứu Phật học, 1992, tr.367.
[9] Lê Văn Thông, Sdd, tr. 47.
[10] Trần Phương Lan (dịch), Đức Phật lịch sử, nxb Tp. HCM, 2000, tr. 126.
[11] Trần Phương Lan (dịch) Sdd, tr. 127.
[12] “Sdd”.
[13] Thích Viên Trí, Ấn Độ Phật giáo sử luận, nxb Phương Đông, Tp.HCM, 2006, tr. 61-62.
[14] Trung Bộ kinh I, “ kinh sợ hãi và khiếp đãm”, HT Thích Minh Châu, Tp. HCM, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1992, tr. 43.
[15] HT. Thích Minh Châu, Sdd, “ Đại kinh Saccaka”, tr. 531.
[16] HT. Thích Minh Châu, Sdd, tr. 532.
[17] HT. Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, nxb Tp.HCM, 1999, tr. 18-19.
[18] HT. Thích Minh Châu, Sdd, tr. 187.
[19] Lê Văn Thông, Sdd, tr. 51.
[20] Phạm Kim Khánh (dịch), Đức Phật và Phật pháp, nxb Phương Đông, 2007, tr. 25.
[21] Trần Phương Lan (dịch), Sdd, tr. 144.